Chú giải Nguyễn_Khoa_Nam

  1. Năm tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa đã tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1975: Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai và Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ.
  2. Cùng di chuyển với Tiểu đoàn 7 vào đồn trú ở Đồng Đế còn có Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 5 Nhảy dù
  3. Đại tá Nguyễn Thọ Lập sinh năm 1918 tại Biên Hòa, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K5, giải ngũ năm 1973
  4. Trung uý Ngô Xuân Nghị sinh năm 1932 tại Khánh Hòa, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K9. Sau cùng là Đại tá Chánh Sở Công tác thuộc Nha Kỹ thuật Bộ Tổng tham mưu.
  5. Đầu tháng 12 năm 1965, Lữ đoàn Nhảy dù được tổ chức thành một Sư đoàn với quân số và trang bị đầy đủ cho một đơn vị Tổng trừ bị của Bộ Tổng tham mưu.
  6. Trung tá Bùi Kim Kha sinh năm 1932 tại Nam Định, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K8. Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy dù.
  7. Chiến đoàn 3 Nhảy dù được thành lập ngày 1/8/1966 tại Sài Gòn. Hậu cứ đặt tại căn cứ Hoàng Hoa Thám ở Bà Quẹo, Tân Bình, Gia Định. Ngày 1/5/1968 Chiến đoàn 3 cải danh thành Lữ đoàn (tương đương cấp Trung đoàn Bộ binh), có 3 Tiểu đoàn tác chiến trực thuộc là Tiểu đoàn 2, 3 và 6. Lữ đoàn 3 Nhảy dù là một trong 3 Lữ đoàn chủ lực nòng cốt của Sư đoàn Nhảy dù (2 Lữ đoàn còn lại là Lữ đoàn 1 và 2. Đầu năm 1974, Sư đoàn Nhảy dù thành lập thêm Lữ đoàn 4 gồm 3 Tiểu đoàn Biệt lập là Tiểu đoàn 12, 14 và 15. Đầu năm 1975 đang hình thành Lữ đoàn 5, dự kiến 3 đơn vị trực thuộc là 3 Tiểu đoàn 16, 17 và 18 đang hoạt động).
    Từ thành lập đến ngày 30/4/1975. Lữ đoàn 3 đã trải qua các sĩ quan chỉ huy sau đây:
    -Trung tá Nguyễn Khoa Nam, từ 01/08/1966 đến 30/11/1970.
    -Trung tá Nguyễn Văn Thọ, từ 01/12/1970 đến 30/03/1971.
    -Trung tá Trương Vĩnh Phước (Sinh năm 1928 tại Sài Gòn, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K4. Sau cùng là Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy dù), từ 31/03/1971 đến 15/12/1972.
    -Trung tá Văn Bá Ninh (Sinh năm 1933 tại Gia Định, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K6. Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy dù), từ 16/12/1972 đến 24/07/1974.
    -Trung tá Lê Văn Phát (Sinh năm 1931, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K4. Thăng cấp Đại tá tháng 11/1974), từ 25/07/1974 đến 04/04/1975.
    -Trung tá Trần Đăng Khôi (Sinh năm 1938 tại Nam Định, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K16), từ 05/04/1975 đến 30/04/1975.
  8. Giữa năm 1968, các Chiến đoàn 1, 2 và 3 của Sư đoàn Nhảy dù cải danh thành Lữ đoàn. Chỉ huy Lữ đoàn 1: Trung tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn 2: Trung tá Đào Văn Hùng (Sinh năm 1923 tại Nam Định, xuất thân từ Hạ sĩ quan trong Quân đội Pháp, sau cùng là Trung đoàn trưởng bộ binh, giải ngũ năm 1974 cùng cấp)
  9. Đại tá Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1929 tại Vũng Tàu, tốt nghiệp khóa 4 Võ khoa Thủ Đức, năm 1971 trong chiến dịch hành quân Hạ Lào bị đối phương bắt làm tù binh, năm 1973 được trao trả trở về Quân lực Việt Nam Cộng hòa
  10. Đặc trách Kế hoạch Hành quân
  11. Đại tá Trần Duy Bính sinh năm 1927 tại Nam Định, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Trung Việt (Huế).
  12. Phòng 3 là bộ phận đảm trách về lĩnh vực lên kế hoạch hành quân, đồng thời theo dõi diễn biến và đáp ứng yêu cầu cho những cuộc hành quân lớn, nhỏ của các đơn vị trực thuộc Quân đoàn, Quân khu.
  13. Đại tá Phạm Thành Can sinh năm 1929 tại Nam Định, tốt nghiệp trường Sĩ quan Nam Định.
  14. Đại tá Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1931 tại Sơn Tây, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K7.
  15. Đại tá Nguyễn Văn Nhỏ, tốt nghiệp Võ bị Huế K1.
  16. Kiêm Phụ tá Tư lệnh Quân đoàn và Tư lệnh Chiến đoàn Đặc nhiệm của Quân đoàn.
  17. Đại tá Nguyễn Đình Vinh sinh năm 1935 tại Đà Lạt, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K10.
  18. Kiêm Tham mưu trưởng Chiến đoàn Đặc nhiệm.

  19. -Đại tá Dương Ngọc Bảo sinh năm 1932 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K3 (nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Quản trị Trung ương).
  20. . Trước đó vào lúc mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4, ông còn gọi điện thoại cho phu nhân của Chuẩn tướng Lê Văn Hưng để chia buồn.
  21. Sinh tiền, tướng Nguyễn Khoa Nam là một Phật tử thuần thành, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách Triết học và Nho học. Ông cũng là một quân nhân thuần túy không xen vào chính trị, không lập gia đình, có cuộc sống giản dị, không xa hoa, không bị tai tiếng tham nhũng và được binh sĩ yêu mến.